Có lẽ định nghĩa hữu ích nhất cho ngành thương mại đá granite là “Đá bao gồm mọi loại đá magma, đá phiến và đá phiến ma”. Việc gộp chung này khá hợp lý vì các loại đá này có tính chất giống nhau, thường được tạo ra từ cùng các loại khoáng vật và công dụng thì tương đương nhau.
Bài viết này sẽ nói về các loại đá hỏa sinh mà cấu thành phần lớn hệ đá granite. Ngoài ra, đá phiến ma là một loại đá biến chất, do bị nung nóng và đè nén tự nhiên mà hình thành các đường vân tuyến tính, tạo nên những lớp vằn nhiều màu sắc. Đá phiến là một loại đá biến chất khác mà chứa nhiều mica, thứ tạo nên sự lấp lánh cho đá.
Định Nghĩa Đá Granite
Đá granite theo ngành địa chất bao gồm 4 khoáng vật: tràng thạch, thạch anh, mica và hocblen. Tràng thạch có thể có màu trắng, xám sáng và/hoặc hồng. Thạch anh thường có màu xám, mica là các hạt tinh thể màu đen hoặc bạc và hocblend trông giống như những ô vuông màu đen. Các loại khoáng vật trên đủ lớn để có thể nhìn được và chỉ vào. Đá granite có màu sáng và có vân lớn mà chứa đủ toàn bộ các màu, phân bố đồng đều trên đá mà không có một kiểu hoa văn cụ thể nào. Ví dụ về các loại đá này là đá Barcelona, đá Giallo Atlantico, đá trắng suối lau.
Granite chỉ là một trong nhiều loại đá hỏa sinh. Giống như các nhà khoa học, kỹ sư địa chất rất chuộng phân loại và sắp xếp mọi thứ. Tuy có rất nhiều ý nghĩa quan trọng đăng sau nội dung và kết cấu khoáng vật của đá hỏa sinh, đối với mục đích thương mại thì khoáng vật và màu sắc chỉ mang ý nghĩa thẩm mỹ. Nhờ các biến dạng của đá khi nóng chảy, chúng ta có nhiều lựa chọn về đá hỏa sinh, từ màu xám nhạt, nâu ấm áp xanh tối hoặc đen thui.
Granite Được Hình Thành Trong Các Lò Mắc-ma
Nhìn chung, càng mất nhiều thời gian để một viên đá chuyển từ dạng mắc-ma lỏng thành dạng rắn, thì các tinh thể càng lớn. Nếu như toàn bộ lò mắc-ma nguội dần ở cùng một tốc độ như nhau, viên đá sẽ có kết cấu đồng đều, tức là mọi khoáng vật đều có kích thước như nhau (Như đá Barre Grey). Nếu như tốc độ nguội khác nhau, thì bạn sẽ có các khoáng vật to nhỏ khác nhau (như đá Baltic Brown). Đá hạt mịn như Absolute Black thì nguội khá nhanh ở gần bề mặt Trái đất nơi nhiệt độ không cao. Đá hạt thô như Uba Tuba nguội chậm hơn.
Theo địa chất học, những gì diễn ra dưới lòng đất không chỉ xảy ra dưới lòng đất. Các khối đá ngầm bị đẩy lên khỏi mặt đất do các lực kiến tạo. Các tầng lớp trồng lên nhau bị sói mòn. Và cuối cùng, chúng ta có thể chứng kiến tận mắt các lò mắc-ma đã hóa rắn. Như vùng núi Sierra Nevada là một minh chứng rõ rệt cho đá granite được làm nguội sâu dưới lòng đất, nghiêng lên trên do đứt gãy địa lý và cuối cùng được tạc thành những vách và đỉnh núi đồ sộ, dưới tác động của những tảng băng của kỉ băng hà.
Các Biến Đổi Đá Granite Và Đặc Điểm Chung
Mặc dù đá hỏa sinh có nhiều màu sắc, vân, kết cấu và loại khoáng thạch, chúng vẫn có chung một số tính chất không đổi. Tất cả các loại đá này đều đủ cứng để không bị xước do hoạt động thường nhật. Chúng không bị khắc mòn kể cả khi bạn đổ rượu vang đỏ lên mặt bàn bếp và để qua đêm. Nhìn chung các loại đá hỏa sinh không bị rỗ nhiều à không dính bẩn, tuy nhiên điều này có thể thay đổi với từng loại đá.
Các Loại Đá Granite Đặc Biệt
Granulit là đá granite trắng hoặc vàng nhạt mà có các hạt tuyến tính, và chúng cũng thường có các tinh thể garnet hồng đậm. Loại đá này là loại đá biến dạng từ đá granite và rất được ưa chuộng vì chúng thường có màu nhạt và vân của chúng phù hợp để đưa vào nhà bếp hay phòng tắm. Ví dụ là đá Colonial Gold, đá River White, hay đá St. Cecilia.
Dòng đá Pearl (Blue Pearl, Labrador Pearl, Emerald Pearl,..) là dòng đá granite rất được ưa chuộng vì vẻ đẹp và khả năng chống chịu dầu mỡ trong nhà bếp của chúng. Dòng đá này được nhận biết bởi các khoáng vật màu bạc hoặc xanh óng ánh, tạo nên vẻ đẹp lung linh cho đá. Khoáng vật tạo ra sự óng ánh cho đá là một loại tràng thạch mang tên Labradorit. Labradorit là một loại biến đổi màu sắc khá hiếm gặp trong các loại tràng thạch phổ biến.
Ứng Dụng Đá Granite
Tương tự như mọi loại đá, có một vài điều cần chú ý khi thiết kế sử dụng loại đá vững chắc này.
Một số loại đá granite và granulit sáng màu có thể bị rỗ, tức là chúng có thể bị dính bẩn. Một cách thử độ rỗ là đổ nước lên trên bề mặ đá. Nếu như nước bật ra khỏi đá tạo thành những hạt nhỏ li ti thì là đá không cần trám keo. Nếu như nước dần dần thấm vào và tạo nên một vùng tối màu thì đá cần phải trám keo.
Đá granite đen lại có vấn đề hoàn toàn trái ngược. Chúng đậm đặc đến mức có thể tạo ra một bề mặt mờ. Hơn nữa, một số đá granite đen có thể bị tạo đốm khi tiếp xúc với các khoáng thể trong nước máy. Khi mua bất kỳ loại đá tự nhiên nào, hãy tìm hiểu kĩ càng nhất có thể về loại đá bạn đang muốn mua. Hãy xin mẫu để đem về nhà và thí nghiệm độ thấm và độ bền. Làm việc với các nhà gia công nổi tiếng có nhiều kinh nghiệp đối với loại đá bạn đang muốn sử dụng.
Nguồn: usenaturalstone.org
>>>>>Xem thêm:
Bài viết rất chi tiết. Cần bổ sung thêm thành phần hoá học nữa @@
Bài viết rất chi tiết. Cần bổ sung thêm thành phần hoá học nữa @@